Top posting users this month | |
November 2024 | Mon | Tue | Wed | Thu | Fri | Sat | Sun |
---|
| | | | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29 | 30 | | Calendar |
|
|
| Thuốc ngủ, an thần: Dùng đúng không lạm dụng | |
| | Tác giả | Thông điệp |
---|
Admin Admin
Posts : 783 Join date : 17/01/2016
| Tiêu đề: Thuốc ngủ, an thần: Dùng đúng không lạm dụng Sat Jan 23, 2016 6:16 pm | |
| Nhóm thuốc ngủ, an thần thuộc diện thuốc phải kê đơn. Tuy nhiên, vì quản lý chưa chặt nên nhiều người vẫn tự ý lạm dụng và có nhiều sai sót khi dùng.
Thuốc ngủ, an thần: Dùng đúng không lạm dụng
Nhóm thuốc ngủ, an thần thuộc diện thuốc phải kê đơn. Tuy nhiên, vì quản lý chưa chặt nên nhiều người vẫn tự ý lạm dụng và có nhiều sai sót khi dùng.
Một số vấn đề chung
Vì một tin vui, nhỡ một cuộc hẹn, mất một vật quí, sắp làm một việc lớn, sắp bước vào cuộc thi… có người bị nôn nao, bồn chồn, lo lắng, căng thẳng không ngủ được. Trường hợp này là mất thăng bằng về tâm thần, thường dùng loại thuốc an thần (còn gọi là thuốc làm dịu) nhằm lập lại thăng bằng như benzodiazepin. Có khi lại bị một bệnh thực thể, lam tăng sự kích thích hay do tuổi tác mà khả năng ức kém cũng không ngủ được. Trường hợp này là bị chứng mất ngủ, phải dùng các loại thuốc ức chế thần kinh như các barbituric. Tuy nhiên, thuốc an thần khi dùng liều cao thì cũng gây ngủ, thuốc ngủ khi dùng liều thấp thì cũng an thần, cho nên hay dùng cả hai tính chất mà chỉ điều chỉnh liều .
Barbituric là nhóm thuốc cũ, có độc tính cấp hơn nên người bệnh thích dùng benzodiazepin hơn… Lại cũng có khi chỉ do môi trường sống, nề nếp sinh hoạt (đến nơi lạ, giường chiếu không sạch sẽ, chỗ ngủ ở gần nơi đông đúc ồn ào, vui chơi làm việc không điều độ) cũng mất ngủ nhưng chỉ cần thay đổi chấn chỉnh lại những điều này, sẽ ngủ được mà không cần dùng thuốc.
Dùng thuốc an thần, gây ngủ phải có chỉ định.
Mất ngủ đầu giấc: buổi tối, nằm xuống, thao thức không ngủ được, nhưng sáng ra lại dậy rất muộn, thường gặp ở người trẻ tuổi. Cần phải dùng loại thuốc khởi phát hiệu lực nhanh (15 – 30 phút đã gây ngủ) nhưng ngắn (chỉ khoảng 3 - 4 giờ là hết). Như vậy lúc đầu tạo ra giấc ngủ bằng thuốc, khi hết giấc ngủ bằng thuốc thì có giấc ngủ tự nhiên nối tiếp.
Mất ngủ cuối giấc: buổi tối nằm xuống rất sớm đã ngủ ngay, nhưng hai ba giờ sáng tỉnh giấc, không ngủ lại được; thường gặp ở người cao tuổi. Cần phải dùng loại thuốc khởi phát chậm (2 – 3 giờ sau mới gây ngủ) nhưng hiệu lực kéo dài (6 - 8 giờ). Như vậy lúc đầu là giấc ngủ tự nhiên, khi giấc ngủ tự nhiên không còn thì được nối tiếp bởi giấc ngủ bằng thuốc. Bởi vậy, cần phải dùng đúng loại thuốc và canh đúng giờ dùng để cho giấc ngủ bằng thuốc không chồng lên giấc ngủ tự nhiên. Thât ra cũng rât kho đê hai loại giấc ngủ hoàn toàn không chồng lên nhau nhưng nếu dùng đúng thì nếu có chồng lên nhau chút ít cũng vào lúc giữa đêm nên giấc ngủ gần như tự nhiên, khi thức dậy không thấy mệt.
Một số thuốc an thần, thuốc ngủ hay dùng
Có nhiều nhóm: barbituric, benzodiazepin, non benzodiazepin (thuốc ngủ thế hệ mới), nhóm nguồn gôc kháng histamin. Dươi đây chỉ nêu 2 nhóm thường dùng tại nhà:
Nhóm benzodiazepin
Benzodiazepin khởi phát hiệu lực nhanh, kéo dài giấc ngủ vừa phải, tạo được giấc ngủ suốt đêm, thời gian tồn tại trong cơ thể không quá dài, không gây mệt lúc thức dậy, nhưng chúng có một số nhược điểm:
- Gây quen thuốc, nghiện, lệ thuộc thuốc, khi rời thuốc, sẽ bị hội chứng cai bao gồm các triệu chứng giống say rượu nặng, nói sảng, run rẩy, mất trí, ảo giác, rối loạn tâm lý, kích động, tăng cơn ác mộng. Nếu bỏ thuốc đột ngột còn bị phản ứng nghịch thường nặng hơn nữa như: kích thích khó ngủ, mất ngủ, co giật, ảo giác, kích động, giận dữ, mất nhân cách, thậm chỉ bạo lực. Có người vì một lý do nào đó gắn bó quá dài (hàng năm, nhiều năm) với bezodiazepin thì cơ thể bị tàn phá nặng nề: thiếu tự tin, không tập trung, luôn luôn bi quan, giận dữ, thậm chí mất trí, sống trong trạng thái hôn mê dài, đến mức khong nhận ra người thân, người xung quanh. Theo nghiên cứu của Australia thì Hội chứng cai do benzodiazepin còn khó vượt qua hơn hội chứng cai do ma túy. Không được lạm dụng.
- Ngay khi cần cũng không dùng kéo dài quá 10 ngày. Khi mới bị quen thuốc, phải tìm cách dứt bỏ sớm, tránh để chuyển sang hội chứng lệ thuộc thuốc. Cách dứt bỏ: giảm liều hàng ngày, tuần đầu giảm 50%, tuần thứ hai giảm thêm 25% liều (chỉ còn 25% liều), sang tuần thứ ba uống mỗi ngày như tuần thứ hai nhưng cách nhật (ngày uống ngày nghỉ), sang tuần thứ tư thì bỏ hẳn.
- Một số thuốc trong nhóm còn gây trạng thái say, quá thoải mái (phởn phơ) thơ mộng, ảo giác, tăng động, mất buồn ngủ, tăng giao tiếp giống như ecstasy (ma túy trắng) nên có người lạm dụng, có người nghiện heroin thuốc phiện khi thiếu thuốc tìm đến dùng. Vì vậy, nhiều nơi quản lý benzodiazepin như quản lý ma túy.
- Gây độc với một số người: nếu dùng liều cao cho những người bị tắc nghẽn đường hô hấp (bệnh hen, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính) thì gây suy hô hấp, quá liều sẽ dẫn tới tử vong. Dùng liều bình thường cho người bị giảm thể tích máu, suy tim sung huyết, tổn thương van tim cũng gây suy tim mạch. Dùng trong tháng đầu thai kỳ sẽ gây dị tật (sứt môi, hở hàm ếch). Tránh dùng cho các đối tượng này. Người bình thường cũng chỉ dun g thuôc theo đúng chỉ định khi cần thiết, không nên tùy tiện.
Nhóm có nguồn gốc kháng histamin
Vì có cấu trúc tương tự, kháng histamin tranh chấp với histamin tự do được giải phóng ra quá thừa và hủy bỏ các triệu chứng dị ứng do histamin gây ra. Trong cấu trúc kháng histamin còn có một gốc có tính ức chế thần kinh trung ương, tạo ra tác dụng phụ buồn ngủ. Các nhà khoa học đã lợi dụng tác dụng phụ này, biến đổi gốc ức chế thần kinh, làm tăng tính ức chế thần kinh, để tạo ra hai nhóm thuốc: nhóm chống loạn thần (không đề cập ở bài này) và nhóm an thần gây ngủ, điển hình là doxylamin. Ở châu Á và nước ta thường dùng biệt dược stressno, có các ưu - nhược điểm sau:
- Stressno có tính an thần gây ngủ vừa phải, khởi phát hiệu lực sau khi dùng 15 - 30 phút (gây ngủ), tạo ra tác dụng cao nhất (ngủ sâu) sau 2 - 3 giờ, kéo dài hiệu lực kể từ sau khi dùng 6 - 7giờ, nên tạo ra được giấc ngủ như ý muốn, khi thức dậy không mệt, được dùng làm thuốc ngủ an thần rộng rãi ở nhiều nước.
- Stressno không gây quen thuốc, không gây nghiện, nên có thể dùng lặp lại nhiều lần cho những người hay bị mất ngủ, hay bị trạng thái không thăng bằng về tâm thần.
- Stressno cũng là loại thuốc ít gây tương tác với thuốc khác, nên có thể dùng phối hợp với thuốc giảm đau paracetamol (khi sốt cao, gây mất ngủ) phối hợp với vitamin B6 (chống nôn do có thai), dùng riêng lẻ hay phối hợp với các thuốc chống dị ứng khác để chống mề đay, chống viêm mũi dị ứng, chống say tàu xe.
-Stressno không có bằng chứng gây hại, gây dị tật thai nên vẫn có thể dùng chống nôn cho người có thai (như nói trên).
-Stressno không độc. Liều được nhà sản xuất giới thiệu: dùng làm thuốc ngủ 1 viên (hàm lượng 25mg) uống trước lúc đi ngủ khoảng 30 phút; dùng an thần hay dùng chống dị ứng, chống nôn, say tàu xe mỗi lần 1 viên mỗi ngày 1 - 2 lần. Các nước Âu - Mỹ đã cho dùng với liều gấp đôi, mỗi lần 50mg mỗi ngày 1 - 2 lần cũng không thấy độc. Tuy nhiên, như với các thuốc an thần gây ngủ có nguồn gốc tự kháng histamin khác, khi dùng thì không
được lái tàu xe, vận hành máy, tránh dùng thuốc cho người bị glaucoma góc đóng, phì đại tiền liệt tuyến, bị bệnh tim mạch và không nên phối hợp với các thuốc an thần gây ngủ khác; vì chưa có nghiên cứu rõ không nên dùng cho trẻ dưới 15 tuổi.
Mỗi nhóm có ưu nhược điểm riêng, tùy theo tính đáp ứng của từng người mà có sự chọn lựa thích hợp. | |
| | | Admin Admin
Posts : 783 Join date : 17/01/2016
| Tiêu đề: Re: Thuốc ngủ, an thần: Dùng đúng không lạm dụng Sat Jan 23, 2016 6:17 pm | |
| PHENOBARBITAL Tên chung quốc tế: Phenobarbital.
Mã ATC: N03A A02.
Loại thuốc: Chống co giật và an thần, gây ngủ.
Dạng thuốc và hàm lượng
Viên nén 15 mg, 50 mg, 100 mg; dung dịch tiêm 200 mg/1 ml; dung dịch uống 15 mg/5 ml; viên đạn.
Dược lý và cơ chế tác dụng
Phenobarbital là thuốc chống co giật thuộc nhóm các barbiturat. Phenobarbital và các barbiturat khác có tác dụng tăng cường và/hoặc bắt chước tác dụng ức chế synap của acid gama aminobutyric (GABA) ở não; điều này cho thấy chúng có những điểm tương đồng với các benzodiazepin. Tuy nhiên, các barbiturat khác với các benzodiazepin ở tính chọn lọc kém hơn; với các barbiturat, ngoài tác dụng ức chế chọn lọc lên synap, chỉ cần tăng liều nhẹ cũng gây ức chế không chọn lọc. Phenobarbital và các barbiturat khác làm giảm sử dụng oxygen ở não trong lúc gây mê, có lẽ chủ yếu thông qua việc ức chế hoạt động của neuron. Các tác dụng này là cơ sở của việc sử dụng các barbiturat để đề phòng nhồi máu não khi não bị thiếu máu cục bộ và khi tổn thương sọ não.
Các barbiturat ức chế có hồi phục hoạt động của tất cả các mô. Tuy vậy, với cùng một nồng độ trong huyết tương hay với các liều tương đương, không phải tất cả các mô đều bị ảnh hưởng như nhau. Hệ thần kinh trung ương nhạy cảm với các barbiturat hơn rất nhiều; liều thuốc gây ngủ và an thần chỉ có tác dụng không đáng kể lên cơ xương, cơ tim và cơ trơn. Phenobarbital ức chế hệ thần kinh trung ương ở mọi mức độ, từ an thần đến gây mê. Thuốc chỉ ức chế tạm thời các đáp ứng đơn synap ở hệ thần kinh trung ương, nhưng sự hồi phục của synap bị chậm lại và có sự giảm trở kháng sau synap ở một số synap, các đáp ứng đa synap bị ảnh hưởng nhiều hơn; điều này giải thích vì sao tác dụng chống co giật và tác dụng ức chế của thuốc lại kéo dài.
Phenobarbital chủ yếu được dùng để chống co giật, tuy vậy thuốc vẫn còn phần nào được dùng để điều trị hội chứng cai rượu. Tác dụng chống co giật của thuốc tương đối không chọn lọc; thuốc hạn chế cơn động kinh lan tỏa và làm tăng ngưỡng động kinh. Thuốc chủ yếu được chỉ định trong cơn động kinh toàn bộ (cơn lớn), và động kinh cục bộ (cục bộ vận động hoặc cảm giác).
Phenobarbital làm giảm nồng độ bilirubin huyết thanh ở trẻ sơ sinh, ở người bệnh tăng bilirubin huyết không liên hợp, không tan huyết bẩm sinh và ở người bệnh ứ mật trong gan, có thể do cảm ứng glucuronyl transferase, một enzym liên hợp bilirubin.
Thuốc uống được hấp thu chậm ở ống tiêu hóa (80%), thuốc gắn vào protein huyết tương (ở trẻ nhỏ 60%, ở người lớn 50%) và được phân bố khắp các mô, nhất là ở não, do thuốc dễ tan trong mỡ. Thể tích phân bố là 0,5 - 1 lít/kg. Nồng độ đỉnh trong huyết tương đạt sau khi uống 8 - 12 giờ ở người lớn, sau 4 giờ ở trẻ em và nồng độ đỉnh trong não đạt sau 10 - 15 giờ. Nửa đời của thuốc trong huyết tương dài (2 - 6 ngày) và thay đổi theo tuổi: Trẻ em từ 1 đến 10 tuổi đào thải phenobarbital nhanh hơn nhiều so với người lớn (40 - 50 giờ ở trẻ em; 84 - 160 giờ ở người lớn) còn ở người bệnh bị suy gan hoặc suy thận thì dài hơn rất nhiều. Phải sau 15 - 21 ngày mới đạt trạng thái cân bằng động của thuốc. Thuốc đặt hậu môn hầu như được hấp thu hoàn toàn ở ruột già.
Nếu tiêm tĩnh mạch, tác dụng của thuốc xuất hiện trong vòng 5 phút và đạt mức tối đa trong vòng 30 phút. Tiêm bắp thịt, tác dụng xuất hiện chậm hơn một chút. Dùng theo đường tiêm, phenobarbital có tác dụng kéo dài từ 4 đến 6 giờ.
Phenobarbital được hydroxyl hóa và liên hợp hóa ở gan. Thuốc đào thải chủ yếu theo nước tiểu dưới dạng các chất chuyển hóa không có hoạt tính (70%) và dạng thuốc nguyên vẹn (30%); một phần nhỏ vào mật và đào thải theo phân. Phenobarbital là chất cảm ứng cytochrom P450 mạnh nên có ảnh hưởng đến chuyển hóa của các thuốc được chuyển hóa ở gan thông qua cytochrom P450.
Chỉ định
Ðộng kinh (trừ động kinh cơn nhỏ): Ðộng kinh cơn lớn, động kinh giật cơ, động kinh cục bộ.
Phòng co giật do sốt cao tái phát ở trẻ nhỏ.
Vàng da sơ sinh, và người bệnh mắc chứng tăng bilirubin huyết không liên hợp bẩm sinh, không tan huyết bẩm sinh và ở người bệnh ứ mật mạn tính trong gan.
Chống chỉ định
Người bệnh quá mẫn với phenobarbital.
Người bệnh suy hô hấp nặng, có khó thở hoặc tắc nghẽn.
Người bệnh rối loạn chuyển hóa porphyrin.
Suy gan nặng.
Thận trọng
Người bệnh có tiền sử nghiện ma túy, nghiện rượu. Người bệnh suy thận. Người bệnh cao tuổi.
Không được ngừng thuốc đột ngột ở người bệnh mắc động kinh.
Dùng phenobarbital lâu ngày có thể gây lệ thuộc thuốc.
Người mang thai và người cho con bú (xem phần dưới).
Người bệnh bị trầm cảm.
Thời kỳ mang thai
Phenobarbital qua nhau thai. Các bà mẹ được điều trị bằng phenobarbital có nguy cơ đẻ con bị dị tật bẩm sinh cao gấp 2 - 3 lần so với bình thường. Dùng phenobarbital ở người mang thai để điều trị động kinh có nguy cơ gây nhiều dị tật bẩm sinh cho thai nhi (xuất huyết lúc ra đời, phụ thuộc thuốc). Nguy cơ dị tật bẩm sinh càng cao, nếu thuốc vẫn được dùng mà không cắt được động kinh. Trong trường hợp này, cân nhắc giữa lợi và hại, vẫn phải cho tiếp tục dùng thuốc nhưng với liều thấp nhất đến mức có thể để kiểm soát các cơn động kinh. Nếu người mẹ không bị động kinh, nhưng có dùng phenobarbital trong thời kỳ mang thai, nguy cơ về dị tật ít thấy, nhưng tai biến xuất huyết và lệ thuộc thuốc ở trẻ sơ sinh còn là vấn đề đáng lo ngại. Chảy máu ở trẻ sơ sinh cũng giống như chảy máu do bị thiếu hụt vitamin K và điều trị khỏi bằng vitamin K. Ðể đề phòng chảy máu liên quan đến thiếu hụt vitamin K, cần bổ sung vitamin K cho mẹ (tiêm 10 - 20 mg/ngày) trong tháng cuối cùng của thai kỳ và cho trẻ sơ sinh (tiêm 1 - 4 mg/ngày trong 1 tuần). Ở trẻ sơ sinh có mẹ đã dùng barbiturat trong suốt ba tháng cuối thai kỳ có thể có triệu chứng cai thuốc. Cần theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu suy hô hấp ở trẻ sơ sinh mà mẹ dùng phenobarbital lúc chuyển dạ và nếu cần thì phải điều trị ngay ngộ độc thuốc phenobacbital quá liều. Trẻ đẻ thiếu tháng rất nhạy cảm với tác dụng ức chế của phenobarbital, nên phải rất thận trọng khi dùng thuốc trong trường hợp dự báo đẻ non.
Thời kỳ cho con bú
Phenobarbital được bài tiết vào sữa mẹ. Do sự đào thải thuốc ở trẻ bú mẹ chậm hơn, nên thuốc có thể tích tụ đến mức nồng độ thuốc trong máu trẻ có thể cao hơn ở người mẹ và gây an thần cho trẻ. Phải thật thận trọng khi bắt buộc phải dùng phenobarbital cho người cho con bú. Phải dặn các bà mẹ cho con bú mà uống phenobarbital, nhất là với liều cao, chú ý theo dõi con mình xem có bị tác dụng ức chế của thuốc hay không. Cũng nên theo dõi nồng độ phenobarbital ở trẻ để tránh mức gây độc.
Tác dụng không mong muốn (ADR)
Thường gặp, ADR >1/100
Toàn thân: Buồn ngủ.
Máu: Có hồng cầu khổng lồ trong máu ngoại vi.
Thần kinh: Rung giật nhãn cầu, mất điều hòa động tác, lo hãi, bị kích thích, lú lẫn (ở người bệnh cao tuổi).
Da: Nổi mẩn do dị ứng (hay gặp ở người bệnh trẻ tuổi).
Ít gặp, 1/1000 < ADR < 1/100
Cơ - xương: Còi xương, nhuyễn xương, loạn dưỡng đau cơ (gặp ở trẻ em khoảng 1 năm sau khi điều trị), đau khớp.
Chuyển hóa: Rối loạn chuyển hóa porphyrin.
Da: Hội chứng Lyell (có thể tử vong).
Hiếm gặp, ADR <1/1000
Máu: Thiếu máu hồng cầu khổng lồ do thiếu hụt acid folic.
Hướng dẫn cách xử trí ADR
Phải giảm liều phenobarbital ở người bệnh cao tuổi, người bệnh có tiền sử bệnh gan hay bệnh thận.
Nếu tiêm phenobarbital vào tĩnh mạch thì phải tiêm thật chậm (dưới 60 mg/phút). Tiêm quá nhanh có thể gây ức chế hô hấp. Cần dành đường tiêm tĩnh mạch cho cấp cứu trạng thái động kinh cấp, chỉ nên tiến hành tại bệnh viện và theo dõi thật chặt chẽ.
Khi có bất cứ tác dụng phụ nào phải ngừng dùng phenobarbital ngay.
Do tác dụng cảm ứng của phenobarbital lên cytochrom P450, nồng độ trong huyết tương của vitamin D2 và D3 (và cả calci), ở người bệnh được điều trị chống co giật liều cao, dài ngày, có thể bị giảm thấp. Người bệnh điều trị bằng phenobarbital phải được bổ sung vitamin D (ở trẻ em 1200 - 2000 đvqt mỗi ngày) và acid folic để phòng bệnh còi xương và nhuyễn xương do dùng thuốc chống co giật.
Liều lượng và cách dùng
Cách dùng
Phenobarbital có thể uống, tiêm dưới da, tiêm bắp sâu và tiêm tĩnh mạch chậm. Ðường tiêm dưới da gây kích ứng mô tại chỗ, không được khuyến cáo. Tiêm tĩnh mạch được dành cho điều trị cấp cứu các trạng thái co giật cấp, tuy vậy tác dụng của thuốc cũng bị hạn chế trong các trường hợp này (thuốc được lựa chọn trong trạng thái động kinh là diazepam hoặc lorazepam). Khi tiêm tĩnh mạch, người bệnh phải nằm bệnh viện và được theo dõi chặt chẽ. Thuốc phải tiêm chậm vào tĩnh mạch, tốc độ không quá 60 mg/phút.
Ðể tiêm dưới da hoặc tiêm bắp, 120 mg bột natri phenobarbital khan được hòa tan trong 1 ml nước cất pha tiêm vô khuẩn. Ðể tiêm tĩnh mạch, 120 mg bột natri phenobarbital khan cần được hòa tan trong 3 ml nước cất pha tiêm vô khuẩn.
Nếu đã dùng dài ngày, phải giảm liều phenobarbital dần dần để tránh các triệu chứng cai thuốc khi người bệnh đã nghiện. Khi chuyển sang dùng thuốc chống co giật khác, phải giảm liều phenobarbital dần dần trong khoảng 1 tuần, đồng thời bắt đầu dùng thuốc thay thế với liều thấp.
Liều lượng
Liều lượng tùy thuộc từng người bệnh. Nồng độ phenobarbital huyết tương 10 microgam/ml gây an thần và nồng độ 40 microgam/ml gây ngủ ở đa số người bệnh. Nồng độ phenobarbital huyết tương lớn hơn 50 microgam/ml có thể gây hôn mê và nồng độ vượt quá 80 microgam/ml có khả năng gây tử vong. Tổng liều dùng hàng ngày không được vượt quá 600 mg.
Ðường uống (tính theo phenobarbital base):
Liều thông thường người lớn:
Chống co giật: 60 - 250 mg mỗi ngày, uống 1 lần hoặc chia thành liều nhỏ.
An thần: Ban ngày 30 - 120 mg, chia làm 2 hoặc 3 lần mỗi ngày.
Gây ngủ: 100 - 320 mg, uống lúc đi ngủ. Không được dùng quá 2 tuần điều trị mất ngủ.
Chống tăng bilirubin huyết: 30 - 60 mg, 3 lần mỗi ngày.
Liều thông thường trẻ em:
Chống co giật: 1 - 6 mg/kg/ngày, uống 1 lần hoặc chia nhỏ liều.
An thần: Ban ngày 2 mg/kg, 3 lần mỗi ngày.
Trước khi phẫu thuật: 1 - 3 mg/kg.
Chống tăng bilirubin - huyết: Sơ sinh: 5 - 10 mg/kg/ngày, trong vài ngày đầu khi mới sinh.
Trẻ em tới 12 tuổi: 1 - 4 mg/kg, 3 lần mỗi ngày.
Ðường tiêm: (tiêm bắp sâu hoặc tiêm tĩnh mạch).
Liều thông thường người lớn:
Chống co giật: 100 - 320 mg, lặp lại nếu cần cho tới tổng liều 600 mg/24 giờ
Trạng thái động kinh: Tiêm tĩnh mạch 10 - 20 mg/kg, lặp lại nếu cần.
An thần: Ban ngày, 30 - 120 mg/ngày, chia làm 2 hoặc 3 lần.
Trước khi phẫu thuật: 130 - 200 mg, 60 đến 90 phút trước khi phẫu thuật.
Gây ngủ: 100 - 325 mg.
Liều thông thường trẻ em:
Chống co giật: Liều ban đầu: 10 - 20 mg/kg, tiêm 1 lần (liều tấn công hoặc liều nạp).
Liều duy trì: 1 - 6 mg/kg/ngày.
Trạng thái động kinh: Tiêm tĩnh mạch chậm (10 - 15 phút) 15 - 20 mg/kg.
An thần: 1 - 3 mg/kg, 60 - 90 phút trước khi phẫu thuật.
Chống tăng bilirubin huyết: 5 - 10 mg/kg/ngày, trong vài ngày đầu sau khi sinh.
Ghi chú: Người bệnh cao tuổi và suy nhược có thể bị kích thích, lú lẫn hoặc trầm cảm với liều thông thường. Ở những người bệnh này có thể phải giảm liều.
Tương tác thuốc
Phenobarbital là chất cảm ứng mạnh cytochrom P450 enzym tham gia trong chuyển hóa của rất nhiều thuốc.
Phenobarbital làm giảm nồng độ của felodipin và nimodipin trong huyết tương. Cần xem xét chọn lựa một thuốc chống tăng huyết áp khác hay một thuốc chống động kinh khác.
Phenobarbital có thể làm mất tác dụng của thuốc tránh thai theo đường uống, khi được dùng đồng thời, do làm tăng chuyển hóa ở gan. Cần áp dụng biện pháp tránh thai khác; nên chọn biện pháp cơ học.
Phenobarbital và doxycyclin dùng đồng thời: Nửa đời của doxycyclin ngắn lại, khiến nồng độ doxycyclin trong huyết tương giảm. Cần tăng liều doxycyclin hoặc chia uống ngày hai lần.
Phenobarbital và corticoid dùng toàn thân: Phenobarbital làm giảm tác dụng của các corticoid. Cần chú ý điều này, đặc biệt ở người mắc bệnh Addison và người bệnh được ghép tạng.
Phenobarbital và ciclosporin: Nồng độ trong huyết tương và tác dụng của ciclosporin bị giảm khi có mặt phenobarbital. Cần tăng liều ciclosporin trong khi điều trị bằng phenobarbital và cần giảm liều ciclosporin khi thôi dùng phenobarbital.
Phenobarbital và hydroquinidin và quinidin: Nồng độ trong huyết tương và tác dụng chống loạn nhịp của quinidin bị giảm. Cần theo dõi lâm sàng, điện tim, nồng độ quinidin trong máu. Cần điều chỉnh liều quinidin.
Phenobarbital và levothyroxin: Người bệnh có tiền sử giảm chức năng giáp có nguy cơ bị suy giáp. Phải kiểm tra nồng độ T3 và T4. Phải chỉnh liều levothyroxin trong và sau trị liệu bằng phenobarbital.
Phenobarbital và acid folic: Nồng độ phenobarbital trong huyết tương giảm có thể làm giảm tác dụng của acid folic. Phải điều chỉnh liều phenobarbital khi dùng bổ sung acid folic.
Phenobarbital và theophylin: Nồng độ trong huyết tương và tác dụng của theophylin bị giảm. Cần điều chỉnh liều theophylin trong khi điều trị bằng phenobarbital.
Phenobarbital và các thuốc chống trầm cảm ba vòng: Các thuốc chống trầm cảm loại imipramin có thể làm tăng nguy cơ xuất hiện các cơn co giật toàn thân. Cần phải tăng liều các thuốc chống động kinh.
Phenobarbital và acid valproic: Nồng độ trong huyết tương và tác dụng an thần của phenobarbital tăng lên. Cần giảm liều phenobarbital khi có dấu hiệu tâm thần bị ức chế.
Phenobarbital và các thuốc chống đông dùng đường uống: Tác dụng của thuốc chống đông bị giảm. Phải thường xuyên kiểm tra prothrombin huyết. Cần điều chỉnh liều thuốc chống đông trong khi điều trị bằng phenobarbital và trong 8 ngày sau khi ngừng dùng phenobarbital.
Phenobarbital và digitoxin: Tác dụng của digitoxin bị giảm.
Phenobarbital và disopyramid: Tác dụng chống loạn nhịp của disopyramid giảm do nồng độ disopyramid trong huyết tương bị giảm. Phải điều chỉnh liều disopyramid.
Phenobarbital và progabid: Nồng độ trong huyết tương của phenobarbital tăng.
Phenobarbital và carbamazepin: Nồng độ trong huyết tương của carbamazepin giảm dần nhưng không làm giảm tác dụng chống động kinh.
Phenobarbital và các thuốc trầm cảm khác, thuốc kháng H1, benzodiazepin, clonidin, dẫn xuất của morphin, các thuốc an thần kinh, thuốc giải lo...: làm tăng tác dụng ức chế hệ thần kinh trung ương.
Phenobarbital và phenytoin: Nồng độ trong huyết tương của phenytoin thay đổi bất thường. Các triệu chứng ngộ độc phenytoin có thể xảy ra khi ngừng dùng phenobarbital. Khi đồng thời dùng phenytoin thì nồng độ phenobarbital trong máu có thể tăng lên đến mức ngộ độc.
Phenobarbital và các thuốc chẹn beta (alprenolol, metoprolol, propranolol): Nồng độ trong huyết tương và tác dụng lâm sàng của các thuốc chẹn beta bị giảm.
Phenobarbital và methotrexat: Ðộc tính về huyết học của methotrexat tăng do dihydrofolat reductase bị ức chế mạnh hơn.
Phenobarbital và rượu: Rượu làm tăng tác dụng an thần của phenobarbital và có thể gây hậu quả nguy hiểm. Phải tránh dùng rượu khi sử dụng thuốc.
Ðộ ổn định và bảo quản
Dung dịch natri phenobarbital trong nước nói chung không bền vững. Thuốc trong polyethylen glycol hoặc propylen glycol thì bền vững hơn.
Không được dùng dung dịch để tiêm nếu có tủa.
Tránh để các ống thuốc tiêm tĩnh mạch ra ánh sáng.
Tương kỵ
Các dung dịch natri phenobarbital không được dùng lẫn với các dung dịch acid vì có thể làm tủa phenobarbital.
Các dung dịch phenobarbital để tiêm không phù hợp về mặt vật lý và/hay hóa học với nhiều thuốc khác.
Quá liều và xử trí
Liều gây độc của các barbiturat rất dao động. Nói chung, phản ứng nặng xảy ra khi lượng thuốc uống vào nhiều hơn liều thường dùng gây ngủ 10 lần. Tử vong thường xảy ra khi nồng độ phenobarbital trong máu cao hơn 80 microgam /ml.
Khi uống quá liều barbiturat, hệ thần kinh trung ương bị ức chế từ mức ngủ đến hôn mê sâu rồi tử vong; hô hấp bị ức chế có thể đến mức có nhịp thở Cheyne - Stockes, giảm thông khí trung tâm và tím tái; giảm thân nhiệt rồi sốt, mất phản xạ, tim nhanh, huyết áp tụt, thiểu niệu. Ðồng tử thường hơi co nhưng nếu ngộ độc nặng thì lại giãn. Người bệnh bị quá liều nặng thường có hội chứng choáng điển hình: Thở chậm, trụy mạch, ngừng hô hấp, và có thể tử vong. Các biến chứng viêm phổi, phù phổi, suy thận có thể gây tử vong. Các biến chứng khác như suy tim sung huyết, loạn nhịp tim, nhiễm khuẩn đường tiết niệu cũng có thể xảy ra.
Phải điều trị và theo dõi người bệnh tại khoa cấp cứu.
Ðiều trị quá liều chủ yếu là điều trị hỗ trợ, nhất là giúp cho đường thở thông và nếu cần thiết thì hô hấp viện trợ và cho thở oxy.
Cách điều trị được ưa dùng nhất trong cấp cứu ngộ độc phenobarbital là dùng nhiều liều than hoạt, đưa vào dạ dày qua ống thông đường mũi. Than hoạt làm tăng đào thải thuốc và rút ngắn thời gian hôn mê. Không nên rửa dạ dày hoặc hút dạ dày trừ khi chắc chắn là thuốc mới được uống (trong vòng 4 giờ); cần chú ý không để người bệnh hít vào phổi các chất chứa trong dạ dày. Nếu người bệnh có chức năng thận bình thường thì có thể gây lợi niệu và kiềm hóa nước tiểu để làm tăng đào thải phenobarbital qua thận. Nếu người bệnh bị ngộ độc nặng, vô niệu hay bị sốc thì nên thẩm phân phúc mạc hay lọc máu thận nhân tạo.
Thông tin qui chế
Phenobarbital có trong danh mục thuốc thiết yếu Việt Nam ban hành lần thứ tư năm 1999.
Thuốc hướng tâm thần.
| |
| | | | Thuốc ngủ, an thần: Dùng đúng không lạm dụng | |
|
Trang 1 trong tổng số 1 trang | |
Similar topics | |
|
| Permissions in this forum: | Bạn không có quyền trả lời bài viết
| |
| |
| |